![](https://i1.wp.com/static-images.vnncdn.net/files/publish/2024/1/24/bo-truong-le-minh-hoan-nong-nghiep-xanh-la-xu-the-khong-the-dao-nguoc-1389.jpg?w=1200&resize=1200,0&ssl=1)
Thời gian gần đây, không chỉ nhắc tới tư duy kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp đa giá trị, Bộ trưởng còn nhiều lần đề cập đến nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn và giảm phát thải khí nhà kính?
‘Xanh’ đang là xu thế chung trên thế giới chứ không chỉ riêng Việt Nam. Vậy nông nghiệp không xanh thì sẽ ra sao?
Dân số ngày càng đông, đất đai lại không thể sinh sôi nảy nở. Trước đây, bằng mọi giá chúng ta tạo ra sản lượng nhiều nhất để phục vụ nhu cầu của con người. Khi nhắm tới sản lượng vô tình tác động vào môi trường, tài nguyên đất, lạm dụng nhiều phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật… Hậu quả, môi trường đất, nước bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Với nông nghiệp xanh, thế giới hướng tới phục hồi lại hệ sinh thái tự nhiên. Mục tiêu, không chỉ cung cấp đủ lương thực thực phẩm cho con người mà còn để lại cho con cháu đời sau có thể canh tác tiếp trên những mảnh đất màu mỡ đó.
Chuyển đổi sang nền nông nghiệp xanh, tức chúng ta quay trở lại những gì cha ông đã làm nhưng với cách tiếp cận mới.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng khốc liệt, nông nghiệp xanh hay nói rộng hơn là kinh tế xanh đòi hỏi cả thế giới đều phải thay đổi về nhận thức. Bởi, sản xuất theo phương thức cũ vô hình chung nền nông nghiệp tạo ra khí carbon, tác động hiệu ứng nhà kính gây ra biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu tác động ngược lại nền nông nghiệp.
Hiệu ứng hai chiều này chỉ có nền nông nghiệp xanh mới hóa giải được. Vì, nông nghiệp xanh hướng đến những gì thân thiện nhất với môi trường, không gây tác động tới tài nguyên thiên nhiên, không gây ra hiệu ứng nhà kính.
Hiện có nhiều người phát kiến ra những mô hình nông nghiệp xanh. Người nông dân đã và đang thích ứng được với những mô hình nông nghiệp để thuận tự nhiên, bảo vệ môi trường, giảm phát thải.
Chính phủ đã phê duyệt Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030. Chúng ta cũng bắt đầu thu được tiền từ tín chỉ carbon… Bộ trưởng có thể đánh giá kết quả đã đạt được trong năm vừa qua khi nông nghiệp bắt đầu chuyển đổi theo hướng xanh?
Trước khi nói đến Đề án 1 triệu ha lúa, chúng ta hãy nói về những mô hình nhỏ hơn nhưng vẫn “xanh”.
Ví như mô hình lúa – tôm ở Cà Mau. Bà con ngày xưa chỉ trồng lúa, giờ biết kết hợp nuôi tôm ngay dưới chân ruộng lúa. Đây là canh tác thuận với môi trường, giảm chi phí phân bón, nước, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học – những thứ gây tác động tới môi trường, hiệu ứng nhà kính.
Hay như ở Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình đang phát triển lúa – rươi. Mô hình này là nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh dựa vào ngành hàng này để phát triển ngành khác hướng tới không lạm dụng phân, thuốc. Vì nuôi rươi không thể sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Điều này cũng chứng minh hạt gạo ở vùng lúa – tôm, lúa – cá, lúa – rươi góp phần giảm lượng phát thải khí nhà kính.
Mô hình nông nghiệp tuần hoàn ở Tây Nguyên cũng vậy. Từ nông trại cà phê, cây ăn quả, thay vì đốt phụ phẩm dẫn đến phát tán hiệu ứng khí nhà kính, bà con đem tái chế, băm nhỏ tạo thành phân sinh học bón cho cây trồng.
Những mô hình này mặc dù nhỏ nhưng chúng ta nhận định, đó chính là mô hình tương lai của nền nông nghiệp xanh cần phải được nhân rộng, tạo sự lan tỏa. Đồng thời, chứng minh cho người nông dân thấy trên cùng một đơn vị diện tích, làm nông nghiệp xanh không khó, không đắt đỏ, thậm chí nếu kiên trì sẽ giảm được chi phí sản xuất, không ảnh hưởng tới sức khỏe, không gây ra hiệu ứng khí nhà kính, giảm phát thải…
Lúa gạo là ngành hàng sản xuất tốn nhiều nước, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Quá lạm dụng sẽ ảnh hưởng tới môi trường, tạo ra hiệu ứng khí nhà kính, tăng chi phí sản xuất, giảm chất lượng hạt gạo…
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao hướng tới hướng tới ngành gạo xanh – sống lành. Qua đây bà con thấy được cách làm lúa phù hợp tri thức bản địa, nhưng đưa yếu tố khoa học vào để chuẩn hóa từ giống, canh tác, giảm phân vô cơ, tăng phân hữu cơ, tưới tiêu tiết kiệm… sẽ không chỉ thu được gạo chất lượng cao mà còn tạo ra cánh đồng lớn bán tín chỉ carbon.
Nói một cách dễ hiểu, có những ngành không thể giảm phát thải, họ phải đi mua quote của những ngành có thể giảm phát thải để bù trừ. Đây là lợi thế của nền nông nghiệp Việt Nam.